HỘI ĐÔNG Y THÀNH PHỐ HỘI AN

HỘI ĐÔNG Y THÀNH PHỐ HỘI AN

12 thg 4, 2014

Người thầy thuốc ngược đời và đa cảm


Người thầy thuốc ngược đời và đa cảm

Đó là người thầy thuốc có học vấn uyên thâm, y thuật cao minh, tài hoa, ngược đời và đa cảm. Một người đã bỏ công sức và tâm huyết cả một đời mình để biên soạn bộ sách Hải Thượng y tông tâm lĩnh, gồm 28 tập, 66 quyển, tổng kết tinh hoa của y học Trung Quốc và y học dân tộc Việt Nam. Bộ sách này gồm đủ các môn: Lý, pháp, phương, dược, nội khoa, ngoại khoa, phụ khoa, sản khoa, nhi khoa, đậu sởi, nhãn khoa, thương khoa, cấp cứu, tạp bệnh, dưỡng sinh... cho đến cách nấu nướng để bảo vệ sức khỏe (Nữ công thắng lãm), sự vận hành của thời tiết, sự biến đổi của khí hậu (Vận khí bí điển) .v.v... Thế mà người đó vẫn tự nhận mình là một kẻ lười biếng - Lãn ông: Không lười sao được, khi xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc, lại quay lưng với vòng danh lợi, tìm về nơi núi rừng xanh thẳm để vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa ra sức nghiên cứu, học hỏi ngày đêm để trở thành người thầy thuốc có ích cho dân. Không lười sao được, khi được chúa yêu, quan quý, mà vẫn tìm cách thoát khỏi chốn kinh thành đầy vinh hoa lợi lộc và cũng đầy hiểm nguy, bất trắc.
Con người đó không bao giờ quên gốc tích nguồn cội của mình: Hải Thượng Lãn Ông (Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng, quê cha và cũng là xã Bầu Thượng quê mẹ).
“Thuở thiếu thời mài gươm đọc sách, mười lăm năm trôi dạt chốn giang hồ, chẳng nên một việc gì. Khi đã gạt bỏ công danh rồi, làm nhà ở Hương Sơn, nuôi mẹ, đọc sách, chuyên chú vào các sách Hiên-Kỳ, gìn giữ sức khỏe, cứu giúp kẻ khác, tự lấy làm đắc sách...”
Đó là người thầy thuốc với tâm nguyện:
Trường nguyên thế nhân giai vô bệnh
Ngâm thi chước tửu dã y nhàn.
(Mong sao người đời không ai mắc bệnh tật gì, để người thầy thuốc được thảnh thơi ngâm thơ uống rượu với tri âm tri kỷ).
Bước vào nghề thuốc phải chăng từ một cơ duyên? Khi quyết tâm giã từ quân ngũ, trở về gánh vác việc nhà, lao tâm khổ tứ, miệt mài đèn sách đến phải lâm trọng bệnh.
“... Trên nhà thì mẹ già đã thất tuần, dưới gối có vài ba cháu côi cút. Tuy đã mãi miết lo toan ngược xuôi nhưng không một phút rảnh rang, việc mài gươm đọc sách, khí hồng nghê muôn trượng khó bề thực hiên... - Việc đời dang dở dở dang. Vào Tần về Hán đôi đường không xong. Bấy lâu hồ hải vẫy vùng. Đời người tráng sĩ cõi lòng như điên - Ngờ đâu trăm điều ràng buộc, tâm lực ngày một hao mòn bị nhiễm bệnh nặng, kéo dài vài năm...”
Nếu không gặp được danh y Trần Độc, một bậc lão nho uyên bác, tận tình cứu chữa suốt một năm dài, thì biết đâu nhân tài rồi cũng như ngọn lá úa của mùa thu, bay vào trong vô định.
Nếu không phải là cơ duyên, thì làm sao lão y sư có tấm lòng nhân ái, ưu thời mẫn thế kia lại đem hết những hiểu biết, sở đắc bao nhiêu năm trong nghề y dược, truyền lại cho một bệnh nhân đang lưu lạc trong thời binh loạn, trôi dạt lên miền thâm sơn cùng cốc.
Việc học cứ thế mà xuôi theo ngày tháng. Nhưng rừng y biển dược quá mênh mông, biết đến khi nào mới thỏa lòng cầu học của kẻ hiền tài?
“Tìm kiếm sách của mọi nhà y, ngày đêm dùi mài, không lở phí từng tấc bóng... Mùa thu năm Bính Tý (1754), lên kinh tìm thầy. Nhưng giận rằng, không có duyên để gặp được thầy giỏi, tôi lại trở về chốn cũ, tạ tuyệt chuyện vui chơi, đóng cửa đọc sách. Ngày tháng dầm thấm, tích lũy thời gian vào việc học tập. Việc chẩn trị có nhiều người khỏi bệnh, được trong quận gọi là thầy thuốc. Tôi đã nguyện gửi gắm vào nghề y, thường muốn dồn hết khả năng trước thuật rộng rãi để dựng lên ngọn cờ đó giữa chốn y trường...”
Cổ nhân dụng dược như dụng binh
Sinh sát quan đầu hệ mị khinh
Quốc thủ do đa khuy phạp xứ
Tàm dư cô lậu lý nan minh
(Người xưa cho rằng người thầy thuốc dùng thuốc cũng như vị tướng dùng binh. Sự sống chết của người ở trong tay mình, chớ có coi thường. Những bậc quốc thủ, tức những thầy thuốc giỏi nhất nước, mà vẫn còn nhiều điều thiếu sót. Lãn Ông này còn quê mùa, hạn hẹp, khó lòng mà hiểu biết tường tận về y lý). Người thầy thuốc đó đã quyết chí tiến lên, không lùi bước trước những trở ngại, khó khăn, thách thức, và vượt qua cả những điều cám dỗ:
Thiện diệt lãn vi hà huống ác
Phú phi sở nguyện khởi ư bần
(Việc thiện mà còn lười biếng chẳng muốn làm, thì làm sao mà làm việc ác cho được! Giàu có cao sang chẳng phải là điều ta mong cầu, thì ngại chi cảnh nghèo - mà thanh bạch).
Phải chăng đó cũng là cách nói của kẻ ngược đời, vì hiểu Lẽ Đời?
“Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi kể công”
Rồi một buổi sáng mùa xuân năm Nhâm Dần (1782), có kẻ dịch mục của quan thự trấn bản xứ mang thư đến:
“Bức thư thứ nhất là bản sao tờ chỉ, truyền rằng nội - san binh - phiên Trạch trung hầu vâng chỉ truyền cho quan thự - trấn Nghệ An là Côn Lĩnh hầu hãy tìm hỏi tính danh người con của tiền thượng thư họ Lê ở huyện Đường Hào, xã Liêu Xá; người con đó tên Lê Hữu Trác, tục gọi Chiêu Bảy, hiện ngụ quê mẹ ở Hương Sơn, xã Tình Diễm. Chỉ còn truyền cho trấn binh tức khắc đón về kinh đợi mệnh...”
Thế là kẻ hiền sĩ ẩn cư nơi rừng xanh núi thẳm lại một phen vướng vào chốn đô hội phù hoa! Từ chối thì chắc chắn là không được rồi, mà nhận lời thì biết tính sao đây?
“Cây vì hoa đẹp mà bị cắt xén, người vì hư danh mà mang lụy vào thân”. Thôi thì cũng tùy duyên mà trôi nổi : “Ắt có một phen ta phải nhọc nhằn vào kinh, lăn lộn trong cái phồn hoa đất đô hội. phụ tình hoa cỏ chốn non xưa”.
Rồi có cả cánh nhạn tiễn đưa, cá sông bịn rịn, bóng chiều mây núi trông theo từ buổi lên đường:
Lưu thủy hà thái cấp
Hành nhân ý dục trì
Quần sơn phân ngạn tẩu
Nhất trạo phích yên phi
Sa nhạn thân như tống
Du ngư cấp dục truy
Vân gian hương lĩnh thụ
Thái bán dĩ tà huy
(Nước chảy sao nhanh quá. Người đi có ý chần chừ. Dãy núi hai bên bờ như đang chạy. Mái chèo rạch khói bay. Con nhạn trên bãi cát ở gần như đưa tiễn. Cá lội nhanh như muốn đuổi theo. Cây núi Hương Sơn ở trong mây. Quá nửa đã nhuộm bóng chiều tà).
Chính vì có một chuyến về kinh, mà Ông Lười đã để lại cho đời một Thượng kinh ký sự, một tác phẩm tiêu biểu nhất thuộc loại hình ký, lục (ghi việc, kể chuyện) vào thế kỷ XVIII. Trong đó, hiện diện những bài thơ chất chứa bao nỗi hoài cảm, thấp thoáng lưu thủy hành vân, phong hoa tuyết nguyệt, cùng những ngỡ ngàng trước cảnh đời dâu bể đa đoan. Từ khi khởi hành đi Thăng Long đến lúc trở về Hương Sơn, chỉ có một năm trời, mà cũng đủ chuyện, đủ điều để cho kẻ lười biếng quyết tâm hơn vào lý tưởng của mình. Tiếng tơ lòng của một trái tim thi nhân đa cảm cũng đã tùy theo vận số mà rung ngân.
Về lại chốn xưa, cảnh cũ không còn, cố nhân biền biệt. Thế mà, đã ba mươi năm trôi qua cuộc đời:
Lạc phách giang hồ tam thập niên
Như kim phục thướng Nhị hà thuyền
Thiên lưu hợp phái hoành trung thổ
Tam đảo kinh vân lập viễn thiên
(Phiêu bạt giang hồ ba mươi năm. Nay lại được lên thuyền trên sông Nhị. Nghìn dòng nước cùng hợp về nơi trung thổ. Núi Tam Đảo vờn mây đứng ở phía trời xa).
Tây Hồ nhất biệt tam thập xuân
Phục khóa khinh chu quá lãng tần
Cách ngạn lâu đài sơn thượng lập
Thượng phương tiếu ngữ thủy trung văn
(Xa cách Tây Hồ đã ba mươi năm. Nay lại được cưỡi thuyền lướt qua ngọn sóng. Ở bờ bên kia là những lâu đài xây trên núi. Tiếng cười nói trong chùa vọng xuống dòng sông).
Một cuộc hội ngộ tình cờ, hay sự ngẫu nhiên của số phận, đã làm cho kỷ niệm xưa ập đến, và cũng làm cho cõi lòng của người phiêu bạt khi trở về cố quận bị ngập tràn niềm ân hận vô bờ. Người con gái ngày xưa đã từng dạm hỏi, đã đầy đủ lục lễ nhưng hôn sự không thành, do chàng đã từ hôn, dứt áo lên đường đến chốn Hương Sơn. Nàng từ đó tự coi mình là người đã có chồng, thề suốt đời không bước lên thuyền khác. Đến khi cha mất, bị người anh ép gã cho một anh đồ trong làng để lấy tiền lo tang lễ, nàng đã cự tuyệt và đem thân gởi vào Liêu Tôn tự, nhờ tiếng mõ câu kinh tẩy sạch lòng trần.
“Ta thấy bà cô độc, khổ sở như vậy, không biết bà còn tình nghĩa hay không? Nhưng việc đến thế này chẳng phải do ta gây nên đó sao?”.
Để chuộc lại lỗi lầm, Lãn Ông đã tìm mọi cách để giúp đỡ, chu cấp, phụng dưỡng cho người đã vì mình mà lỡ một mối lương duyên. Nhưng vị sư bà đã cảm tạ và xin từ chối trong nỗi niềm hạnh ngộ:
“Cám ơn cụ đã có lòng tốt. Tôi không gặp được chồng, phải cô độc, khổ sở thế này cũng là bởi cái số mệnh của tôi, chứ có dám trách ai đâu?... Tôi chưa được ân huê của người, nhưng tấm lòng của người đã hiểu cho như thế, cũng là đủ an ủi cái cảnh lênh đênh cô độc của tôi rồi!”.
Thế là nỗi cảm thương chất ngất, những giọt lệ ăn năn đã tuôn trào từ một trái tim hiền lành và đa cảm:
Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa
Kim nhật tương khan khổ tự ta
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ
Song mầu xuân tận kiến hình hoa
Thử sinh nguyện tác can huynh muội
Tái thế ưng đồ tốn thất gia
Ngã bất phụ nhân nhân phụ ngã
Túng nhiên như thử nại chi hà
(Cũng bởi vô tâm mà làm thiệt thòi cho người ta. Ngày nay gặp lại nhau luống những than thở một mình. Một nụ cười đa tình mà tuôn dòng lệ xót. Nhìn trong mắt nhau thấy xuân đã tận, hoa đã tàn, chỉ còn bóng dáng hoa xưa. Thôi thì kiếp này xin nguyện kết nghĩa muội - huynh. Hẹn kiếp lai sinh sẽ vẹn nghĩa vợ chồng. Ta không phụ người, người phụ ta. Nếu đã như thế này thì còn biết tính sao đây?)
Cuối cùng, tình cầm sắt dang dở đã chuyển sang cầm kỳ, đôi bạn bạc đầu thường quan tâm đi lại hỏi thăm nhau. Chỉ còn đủ chút ít thời gian để lo lắng về hậu sự, mong bạn đến lúc trăm tuổi có được chiếc áo quan vừa ý khi đã xuôi tay nhắm mắt. Thật là một câu chuyện tình làm cảm động lòng người. Và bài thơ nói về cuộc tình dang dở kia đã trở thành một trong những áng thơ tình hay nhất của dòng thơ cổ điển Việt Nam.
Thôi thì từ giã “chốn lao xao” với những kẻ siêng năng quá mực, khôn khéo ngất trời; để về “nơi vắng vẻ”, làm kẻ biếng lười, khờ dại, vui với nước chảy đầu nguồn, cỏ hoa bên suối, trăng sáng non xanh. Như thuở nào Bạch Vân cư sĩ đã từng sảng khoái viết bài thơ Nhắp rượu: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp Nhìn xem phú quý tợ chiêm bao”.
Vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791), trái tim nhân hậu của người thầy thuốc ngược đời mà đa tình đa cảm đó đã không còn rung ngân những vần thơ đầy cảm hoài và tao nhã nữa. Tại Bầu Thượng, (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), những người nông dân hiền hòa chất phác, những vị tiều phu một nắng hai sương, cùng với bao người từng là bệnh nhân, thương tiếc tiễn đưa Lãn Ông vào cõi vĩnh hằng, thắp những nén tâm hương lên ngôi mộ nằm cạnh khe suối cạn, dưới chân núi Minh Từ.
Chỉ có 71 năm đi qua cõi hồng trần, nhưng người thầy thuốc đó đã để lại một công trình hết sức to lớn, vừa ý nghĩa sâu xa về nội dung, lại vừa đồ sộ về hình thức (toàn bộ bản dịch Hải Thượng y tông tâm lĩnh đã được Nhà xuất bản Y Học - Hà Nội in vào năm 1995, với hơn 2.300 trang khổ lớn - 19 x 27cm).
Cuộc đời của con người cao quý đó là một bài học vô giá cho muôn đời. Và cuộc đời của Lãn Ông cũng đã làm rung cảm tấm lòng của người nữ sĩ Yveline Féray ở tận trời Tây. Nhà văn nữ người Pháp này đã bỏ ra nhiều công sức sưu tầm nhiều tài liệu để chuyển tải cuộc đời đầy phong ba nhưng cũng rất nhân hậu, tài hoa, hào sảng và đa cảm đó vào trong tác phẩm Lãn Ông (Monsieur le Paresseux, NXB Robert Laffont, Paris 2000).