Nền Đông y Việt Nam là một bộ phận
di sản văn hóa dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, nền
Đông y Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ
đại của toàn dân tộc. Trên suốt chặng đường lịch sử, đặc biệt trong hơn 20
năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền Đông y Việt Nam
đã có những bước phát triển và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền y học
cách mạng Việt Nam. Góp phần làm nên những thắng lợi to lớn về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội của nhân dân ta trên con đường phát triển và hội nhập.
Nền Đông
y Việt nam ra đời từ rất sớm. Từ thủa vua Hùng dựng nước, tổ tiên ta đã biết
sử dụng 100 vị thuốc và châm cứu để chữa bệnh. Năm 1010 Lý Công Uẩn dời đô về
Thăng long, các vị vua anh minh nhà Lý lập ra Ty thái y để chăm sóc sức khỏe
cung đình, từ đó Đông y đã trở thành nền y học chính thống của các triều đại
Nhà nước phong kiến Việt nam.
Từ thế
kỷ thứ XIII đến thế kỷ XIX có 59 danh y đã để lại cho đất nước và các thế hệ
sau 61 tác phẩm với những pho sách quý về lý luận cơ bản Đông y, các phương
pháp chữa bệnh về nội khoa, ngoại khoa, thương khoa, nhi khoa, phụ khoa, ngũ
quan, các phương pháp phòng bệnh, dưỡng sinh và đặc biệt là 9 điều y huấn
cách ngôn hướng dẫn đạo đức cho người làm thuốc. Tên tuổi và sự nghiệp các
bậc danh y Tuệ Tĩnh, Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác, Hoàng Đôn Hòa, Nguyễn
Đại Năng, Đào Công Chính, Phạm Công Bân, Chu Văn An mãi mãi là những
tinh hoa rực rỡ của nền y học dân tộc Việt Nam.
Thời kỳ Pháp thuộc, mặc dù bị Thực
dân Pháp cấm đoán, nhưng Đông y vẫn khám chữa bệnh chăm sóc sức khỏe cho nhân
dân.
Cách mạng Tháng 8-1945 thành công,
nước nhà độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký sắc lệnh 52 về thành lập các tổ chức hội.
Ngày 22 tháng 8 năm 1946 Chính phủ
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Nghị định số 337/NĐ-NV cho phép
thành lập Hội nghiên cứu Nam dược (tiền thân Hội Đông y Việt Nam ngày nay).
Để góp phần tích cực vào công cuộc
kháng chiến kiến quốc Hội được đổi tên là Hội Đông y cứu quốc; Tiếp đó là Hội
Đông y cứu quốc Nam bộ, Hội Đông y cứu quốc tỉnh Quảng ngãi, Hội Đông y cứu
quốc tỉnh Thanh Hóa được thành lập và đi vào hoạt động.
Trong kháng chiến chống pháp, với
tinh thần tự lập, tự cường Đảng ta chủ trương dùng Đông y để chữa bệnh cho
cán bộ, bộ đội và nhân dân; Năm 1948 đã lập Ban Nghiên cứu Đông y ở Bộ Y tế,
sau đó đến các liên khu và các địa phương.
Một số tỉnh thuộc Liên khu 4 đã có
xưởng bào chế, chế biến các loại thuốc cao đơn, hoàn tán, điều trị sốt rét,
ỉa chảy và nhiều loại thuốc khác.
Ở Quảng Ngãi hội Đông y tỉnh đã bào chế thuốc điều trị bệnh phù thũng, kiết
lỵ, đau bụng. Ở Nam bộ đã xây dựng “toa căn bản” gồm 10 vị thuốc nam chữa
bệnh cho bộ đội và nhân dân rất có hiệu quả, biên soạn cuốn “dược tính thuốc
nam” và “cơ bản thuốc Nam” để phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Liên khu 3 đã
thành lập HTX sản xuất nhiều loại thuốc để phòng bệnh, chữa bệnh cho nhân
dân các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình…Hội Đông y cứu quốc Thanh Hóa
đã mở các lớp hấn luyện Đông y phục vụ nhân dân và phục vụ các đoàn dân công
hỏa tuyến.
Năm 1954 cuộc kháng chiến chống
Thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Căn cứ sắc lệnh
52/SL của Chủ tịch nước Bộ Nội vụ thay mặt Chính phủ ban hành Nghị định
399/NV-DC/NĐ ngày 3 tháng 6 năm 1957 cho phép tái thành lập Hội Đông y ở 32
tỉnh thành phố từ Vĩnh Linh trở ra với 4 cấp hội từ Trung ương đến cơ sở.
Ngày 27 tháng 2 năm 1955 trong thư
gửi cán bộ, nhân viên ngành y tế Bác Hồ đã căn dặn”Cha ông ta ngày trước có
nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở
rộng phạm vi y học các cô các chú nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc
“đông” và thuốc “tây”.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, ngay từ những ngày đầu Hội Đông y Việt Nam đã cử các hội viên Đông y có
nhiều kinh nghiệm sử dụng thuốc nam tổ chức hướng dẫn cho cán bộ, bộ đội tại
Chùa Bộc, Hà Nội đi công tác chiến trường biết nhận dạng một số cây thuốc
trong rừng để chữa bệnh sốt rét, ỉa chảy, cảm cúm và các bệnh khác…Trung ương
Hội đã chỉ đaọ các địa phương xây dự, củng cố, phát triển tổ chức hội; phối
hợp cùng ngành y tế chăm sóc bảo vệ sức khỏe bộ đội, nhân dân góp phần làm
nên thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Kháng chiến chống Mỹ cứu nước
thắng lợi, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, nước nhà hoàn
toàn độc lập, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 118/CT/TW ngày
30 tháng 9 năm 1981 v/v “Củng cố tổ chức và tăng cường công tác của Hội y học
cổ truyền (Hội Đông y) Việt nam trong thời kỳ mới”.Chỉ thị nhấn mạnh việc
kiện toàn Ban chấp hành Trung ương Hội để đủ sức lãnh đạo công tác Hội trong
cả nước, thành lập Hội ở ba cấp, tỉnh (thành), huyên(quận, thị xã) và xã
(phường) tại các địa phương mới được giải phóng.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc Đảng cộng sản Việt Nam các khóa từ khóa III đến khóa XI luôn đánh giá
cao vai trò của Đông y, Đảng chủ trương phát triển nền Đông y Việt Nam để
chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai
đoạn cách mạng.
Bước sang thời kỳ đổi mới, dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước được ban hành:
Nghị quyết 46/NQ-TW của Bộ Chính
trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong
tình hình mới đã ghi:’ Đẩy mạnh việc nghiên cứu thừa kế, bảo tồn và phát
triển y dược học cổ truyền thành một chuyên ngành khoa học”, “vận động
khuyến khích và hướng dẫn nhân dân nuôi trồng và sử dụng các cây con làm
thuốc”.
Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày
3/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính sách quốc gia về y dược cổ
truyền đến năm 2010.
Chỉ thị 24/CT-TW ngày 4/7/2008 của
Ban Bí thư Trung ương về “Phát triển nền Đông y Việt nam và Hội Đông y Việt
Nam trong tình hình mới”.
Nghị định 45/NĐ- CP ngày 21/4/2010
của Chính phủ quy định về tổ chức quản lý hội. Quyết định số 68/QĐ- TTg ngày
01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ công nhận một số hội có tính chất đặc thù
trong đó có Hội Đông y Việt Nam.
Quyết định 2166/QĐ-TTg ngày
30/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành “Kế hoạch hành động của Chính phủ
về phát triển y dược cổ truyền Việt nam đến năm 2020”.
Hội Đông y Việt nam đã tổ chức cho
các cấp hội và hội viên học tập, quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện có
hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước
Về tổ chức hội: Đến nay đã có
62/63 tỉnh, thành hội, 90 % số quận, huyện, thị ; 82,3 % số xã, phường,
thị trấn đã có tổ chức hội hoạt động. Tổng số hội viên trong cả nước tính đến
tháng 12 năm 2010 là gần 70.000 hội viên gồm trên 40 dân tộc, không phân biệt
các thành phần tôn giáo, các tầng lớp giai cấp trong xã hội Việt Nam. Khối
chi hội trực thuộc Trung ương hội gồm 30 đơn vị bao gồm các cơ sở khám, chữa
bệnh, đào tạo, sản xuất thuốc, nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực đông y,
đông dược.
Hội Đông y Việt nam là một tổ chức
xã hội - nghề nghiệp mang tính chất đặc thù, với hệ thống tổ chức hội rộng
lớn, hoàn chỉnh ở cả 4 cấp hội từ Trung ương đến cơ sở xã, phường.
- Hội thường xuyên đào tao, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn tay nghề cho đội ngũ cán bộ, hội viên,
không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, phấn đấu giỏi về y lý,
tinh thông về y thuật trong sáng về y đức đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh,
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân nhất là
đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn.
- Tổ chức tốt công tác khám chữa
bệnh, thừa kế những môn thuốc hay, những cây thuốc quý của các ông lang, bà
mế, lương y có tay nghề cao, người có bài thuốc gia truyền chữa bệnh hiệu
quả.
- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tu
thư biên dịch, tuyên truyền phổ biến, kết hợp Đông y với tây y, từng bước xã
hội hóa chăm sóc sức khỏe nhân dân.
- Tăng
cường hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội, tham gia đóng góp ý
kiến xây dựng các chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước liên quan đến đông
y đông dược.
- Phối hợp cùng ngành y tế thực hiện có hiệu quả công tác chăm sóc bảo
vệ sức khỏe nhân dân, kế thừa, phát huy, phát triển nền Đông y nước
nhà, bảo tồn một bộ phận di sản văn hóa dân tộc.Phấn đấu thực hiện mục tiêu
“Phát triển y dược cổ truyền Việt Nam đến năm 2020 ” của chính phủ là khám
chữa bệnh bằng y dược cổ truyền đến năm 2015 tuyến Trung ương đạt 10%, tuyến
tỉnh đạt 15 %, tuyến huyện 20 %, tuyến xã đạt 30%. Đến năm 2020 Trung ương
đạt 15 %, tuyến tỉnh đật 20 %, tuyến huyện 25 % và tuyến xã phải đạt 40%.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng Nền Y học Việt Nam khoa
học - dân tộc - đại chúng, thiết thực phục vụ sức khỏe nhân dân, góp phần xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh
Sự hình thành và phát triển Ngành
Đông Y Tại T.P.Hội An
|
-: Đô thị cổ Hội An, từ thế kỷ XVI, XVII, từng là tụ điểm của ngành Đông
y ở Đàng Trong. Hàng hóa xuất nhập tại đây có nhiều loại dược liệu quý, thường
được gọi bằng cái tên dân dã là thuốc Bắc nếu nhập từ Trung Quốc, hoặc thuốc
Nam nếu là hàng nội địa. Vào thời kỳ ấy, dọc các đường Trần Phú, Nguyễn Thái
Học, Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi ngày nay có nhiều tiệm thuốc Bắc, thuốc Nam cùng
nhiều thầy thuốc giỏi. Những kinh nghiệm chữa trị của các thầy thuốc ở Hội An
đã góp phần đáng kể để phát triển nghề y cổ truyền của địa phương cũng như của
Quảng Nam, Đàng Trong. Hoạt động điều trị ở đây bao gồm các khâu liên hoàn từ
bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc, điều chế hoặc trồng hái cây lá thuốc... Nhiều tư
liệu cho biết, ngay tới tận đầu thế kỷ XX, khi ngành Tây y chưa phổ biến, người
dân khắp nơi đã đổ về phố Hội An cắt thuốc, chữa bệnh rất đông đảo. Trải qua
bao biến đổi của thời gian, và thay đổi thói quen của con người, ngày nay, Hội
an là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam
Ngành Đông
y cổ truyền ở Hội An.đã qua VII nhiệm kỳ hoạt động.Đến nay vẫn được trân trọng, duy trì, ngày càng có xu hướng phát
triển và có uy tín lớn không những đối với nhân dân địa phương mà còn đối với
khá nhiều du khách từng bắt mạch bốc thuốc chữa bệnh trên địa bàn
Năm đầu tiên BCH nhiệm kỳ VII với 15 Thành
viên được thành lập , Hội Đông y Hội An hiện có 61 hội viên sinh hoạt tại 8 chi
hội, gồm: 1 bác sĩ, 3 Lương Y đa khoa; 15 Lương y chuyên khoa nội,30 Lương Y
thừa kế;3 Lương y châm cứu; 3 lương dược ;3 y sĩđịnh hướng YHCT và 3 trung
cấpYHCT. Trong năm 2012, trên địa bàn có 25 phòng khám Đông y và 3 cơ sở Đông
dược; đã khám chữa bệnh cho 19.216 và 48.073 lượt người khám bệnh, sử dụng
83.867 thang thuốc, 428kg bột dược liệu , 2.157kg hoàn dược;323lít thuốc nước; thực
hiện 2.146 lượt chữa bệnh bằng phương pháp châm cứu,127 lượt day bấm huyệt bệnh
đơn giản … Tổng giá trị thuốc đã dùng quy ra tiền:5.2 tỷ đồng.
Năm 2013 Hội đông y thành phố Hội an đề ra phương hướng hoạt động sau :
_Củng cố
tổ chức-xây dựng, phát triển mạng lưới Hội.
_Bồi
dưỡng-thừa kế-nghiên cứu chuyên môn
_Nâng cao
hoạt động khám chữa bệnh.
_Trồng và
sử dụng cây thuốc nam
_Tăng
cường công tác :Đền ơn Đáp nghĩa-Từ thiện xã hội ,xây dựng nhà đại đoàn kết.
_Phối hợp
truyền thông , đẩy mạnh tài chính,hưởng ứng thi đua và chia sẻ tinh thần tương
thân tương ái trong tổ chúc Hội.
V.M tổng hợp từ các tư liệu.